TỔNG KẾT NỘI DUNG 9 ÂN ÐỨC PHẬT
Nội dung chín Ân đức Phật thật là vi diệu và bao la. Ðể cho dễ nhớ, chúng ta có thể tổng kết 9 ân đức nầy theo 3 cách:
Ðức Phật có vô số ân đức vi diệu. Tuy nhiên, tất cả đều bắt nguồn từ 3 ân đức trọng đại là Tịnh đức, Bi đức, và Tuệ đức.
Theo ý nghĩa nầy, Ân đức Sugata (Thiện Thệ) nói lên cả hai lợi ích. Lợi ích của riêng Ðức Phật và và lợi ích cho chúng sanh. Ân đức Anuttaropurisadammasarathi (Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu) và Satthadevamanussana (Thiên nhân sư) nói lên ân đức của Ðức Thế Tôn trong việc mang lại lợi ích cho chúng sanh. Ân đức Buddho (Phật) nói lên ý nghĩa của việc vừa mang lại lợi ích cho riêng đức Phật và cho chúng sanh. Ân đức Bhagava (Thế Tôn) nhấn mạnh cả hai sự thành đạt của riêng Ðức Phật và sự thành công trong việc mang lại lợi lạc cho chúng sanh.
III. TỔNG KẾT THEO CĂN (HETU), QUẢ (PHALA) VÀ VIỆC MANG LẠI LỢI LẠC CHO CHÚNG SANH:
Về căn cơ (hetu), 4 ân đức đầu tiên Araham (Ứng cúng), Sammasambuddha (Chánh biến tri), Vijjacaranasampanno (Minh hạnh túc), Lokavidu (Thế gian giải) là những căn lành vô thượng của Ðức Phật.
Về quả (phala), Ân đức Anuttaropurisadammasarathi (Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu) và Satthadevamanussanam (Thiên nhân sư) là cái quả tốt lành mà Ðức Phật có được từ 4 ân đức vừa kể trên để Ngài mang lại lợi ích cho chúng sanh.
Ân đức Buddho (Phật) vừa nói lên cái nhân tốt lành và cao thượng vô biên của Ðức Phật vừa nói lên cái quả tốt đẹp mà Ðức Phật có được để Ngài mang lại lợi lạc cho chúng sanh.
Ân đức Sugatha (Thiện thệ) và Bhagava (Thế Tôn) nói lên cái nhân lành, cái quả đẹp, và những lợi lạc mà Ðức Phật mang lại cho thế gian.[i]
-ooOoo-
BA CÁCH NIỆM ÂN ÐỨC PHẬT
Có nhiều cách niệm ân đức Phật. Sau đây là 3 cách niệm ân đức Phật rất phổ thông được các Ðại đức ở Miến Ðiện và Việt Nam đề nghị:
Theo Ðại đức Dhammasani, Niệm ân đức Phật là một loại thiền quán tưởng (reflective meditation). Thiền quán tưởng khác với tụng đọc. Khi đọc tụng danh hiệu của Ðức Phật cùng với các Phật tử khác, chúng ta đọc rất nhanh và không có thì giờ để suy tưởng. Khi niệm ân đức Phật, chúng ta niệm rất chậm để có thì giờ học tập và tìm hiểu ý nghĩa của từng danh hiệu, Ứng cúng nghĩa là gì, Chính Biến Tri nghĩa là gì rồi cố gắng quán tưởng về những ân đức nầy và tìm cách áp dụng vào việc trau dồi đạo đức hàng ngày của chúng ta.
Ðể việc niệm ân đức Phật có hiệu quả, Ðại đức Dhammasani đề nghị:
Càng niệm ân đức Phật theo cách nầy, chúng ta sẽ càng ý thức về những phiền não trong tâm chúng ta. Chúng ta cũng sẽ uyển chuyển hơn với ý nghĩa của từng ân đức Phật. Ý nghĩa những ân đức nầy sẽ dần dần trở thành của chính chúng ta chứ không phải là định nghĩa từ sách vở hay từ các bài giảng pháp. Khi chúng ta nhận thức được ý nghĩa thật sự của những ân đức nầy trong cuộc sống, việc niệm ân đức Phật sẽ trở thành sinh động và vô cùng có ý nghĩa.
Theo Ðại đức Min Gun, niệm ân đức Phật là một loại thiền định hay thiền chỉ (Samatha). Thiền sinh nên cố gắng niệm ân đức Phật bằng tiếng Pali. Không niệm quá nhanh hoặc quá chậm và luôn cố gắng quán tưởng đến ý nghĩa của mỗi ân đức. Việc niệm ân đức Phật sẽ làm cho những tâm tham lam, sân hận, và si mê không thể khởi lên được. Ðồng thời sự tập trung chính niệm trên các ân đức Phật sẽ giúp chúng ta tránh được tâm dã dượi buồn ngủ và phóng dật, duy trì chính hướng tâm và tâm quân bình.
Khi tâm định càng phát triển, các chướng ngại yếu dần, phiền não lắng xuống, ngủ căn bắt đầu phát triển. Tín căn càng được cũng cố. Việc quán niệm ân đức Phật thường xuyên sẽ cũng cố tầm (vitakka), tứ (vicara). Khi có tầm và tứ, hỷ (piti) và lạc sẽ phát sinh thêm, đẩy lùi những tâm sở bất thiện, và củng cố tâm định.
III. CÁCH NIỆM ÂN ÐỨC PHẬT CỦA ÐẠI ÐỨC HỘ PHÁP:
Theo Ðại đứcHộ Pháp, niệm ân đức Phật không chỉ là một đề mục thiền chỉ mà còn là nền tảng để tiến hành thiền minh sát hay thiền tuệ. Do đó, niệm ân đức Phật có 2 giai đoạn:
Hành giả tiến hành thiền tuệ cần phải có danh pháp, sắc pháp hoặc thân, thọ, tâm, pháp thuộc Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma) làm đối tượng. Như vậy thì việc niệm ân đức Phật làm nền tảng đề tiến hành thiền tuêï như thế nào?
Chú giải Chi Bộ kinh giải về đề mục Niệm Ân Ðức Phật có viết:
"Ðàn ông niệm Ân đức Phật có phải không? Cũng như vậy, đàn bà, chư thiên, phạm thiên niệm Ân đức Phật có phải không?
Ðúng theo chân nghĩa pháp, không có một ai niệm ân đức Phật cả mà chỉ có đại thiện tâm hợp với trí niệm Ân Ðức Phật mà thôi."[iii]
Khi hành giả tiến hành niệm ân đức Phật, vị ấy có đại thiện tâm hợp với trí làm phận sự cận định tâm thuộc tâm pháp hay danh pháp, làm đối tượng thiền tuêï (trong phần niệm tâmcủa pháp hành tứ niệm xứ) và đại thiện tâm hợp với trí ấy phát sinh do nương nhờ sắc ý căn (hadaya vatthu) thuộc sắc pháp. Như vậy danh pháp liên quan với sắc pháp này làm đối tượng của thiền tuệ.
Trí tuệ thiền tuêï thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp ấy, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trang thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp ấy dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Ðế, chứng đắc Thánh đạo - Thánh quả và Niết bàn.
Hay nói một cách khác, hành giả tiến hành thiền tuệ có đại thiện tâm hợp với trí làm phận sự cận định tâm, làm đối tượng thiền tuệ, trí tuêï thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đại thiện tâm hợp với trí ấy thuộc thức uẩn.
- Thọ tâm sở đồng sanh với đại thiện tâm ấy thuộc thọ uẩn.
- Tưởng tâm sở đồng sanh với đại thiện tâm ấy thuộc tưởng uẩn.
- Các tâm sở khác còn lại đồng sanh với đại thiện tâm ấy thuộc hành uẩn.
- Ðại thiện tâm hợp với trí này phát sanh do nương nhờ sắc ý căn thuộc sắc uẩn.
Ngũ uẩn này là đối tượng cuả thiền tuệ, trong phần niệm pháp của pháp hành Tứ niệm xứ.
Trí tuệ phát sinh từ thiền minh sát thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của ngũ uẩn ấy, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của ngũ uẩn ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh đạo - Thánh quả và Niết bàn.
Trước khi tiến hành việc niệm ân đức Phật, Ngài Hộ Pháp đề nghị chúng ta làm những việc sau đây[iv]:
Hành giả có thể niệm như sau:
Niệm thầm trong tâm hàng trăm lần, hàng ngàn lần, suốt thời gian tiến hành ngồi niệm ân đức Phật, định tâm an trú nơi Ân đức Phật đồng thời hiểu rõ những ân đức Phật, để tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, có trí tuệ sáng suốt hiểu rõ về ý nghĩa ân đức Phật.
Ðây là phương pháp "tuyệt vời" vì có sự trùng hợp giữa 108 âm của 9 ân đức Phật (nếu chúng ta thêm I- ti- pi -so-Bha- ga -va vào 9 danh hiệu Phật) và 108 hột của xâu chuỗi. Khi niệm ra mỗi âm, chúng ta lần theo một hột. Chúng ta phải học thuộc lòng 108 âm trong 9 ân đức Phật.
Phương pháp nầy làm tâm của hành giả an trú trọn đủ trong 9 ân đức Phật một cách liên tục trước sau và giúp hành giả kiểm soát được tâm của mình. Câu I-ti-pi-so-Bha-ga-va giúp hành giả có thì giờ liên tưởng đến ân đức kế tiếp. Sẽ có 3 tâm sở thiện phát sinh: niệm (sati), tuệ (panna) và tinh tấn. Ba tâm sở nầy khắng khít với nhau, không có khoảng thời gian trống nào. Tâm phóng dật không thể phát sinh. Khi tiến hành đúng phương pháp nầy và niệm xong một xâu chuỗi 108 hột, tâm của hành giả sẽ hoan hỷ. Nhiều lần đúng, tâm sẽ càng hoan hỷ hơn. Khi làm không đúng, chữ "và" cuối cùng của ân đức Bhagava không rơi vào đúng hột thứ 108, hành giả sẽ biết là mình không theo đúng phương pháp nầy. Hành giả sẽ càng chú tâm niệm, trí tuệ, và tinh tấn nhiều hơn. Qua đó, hành giả kiểm soát được tâm mình.
Trong chuỗi 108 hột, mỗi hột có một vị trí "âm" nhất định. Âm cuối cùng của ân đức Phật thứ nhất "ham" ở vị trí hột số 10. Ân đức Phật thứ nhì "dho" ở hột số 22. Ân đức Phật thứ ba là "no" ở hột số 37. Ân đức Phật thứ tư là "to" ở hột số 47. Ân đức Phật thứ năm là "du" ở hột số 58. Ân đức Phật thứ sáu là "thi" ở hột số 77. Ân đức Phật thứ bảy là "nam" ở hột số 92. Ân đức Phật thứ tám là "dho" ở hột số 101. Ân đức Phật thứ chín là "và" ở hột số 108. Mỗi khi hành giả niệm mỗi âm lần theo mỗi hột. Nếu thấy sai vị trí, hành giả biết ngay mình đã sai phương pháp và có thể bắt đầu trở lại.
Phương pháp nầy đặc biệt thích hợp với người đời thường, thường hay phóng tâm, có nhiều công việc đa doan, những thương gia, học sinh, sinh viên theo học nhiều môn, học khó hiểu, khó nhớ lâu, những người thường băn khoăn lo ngại. Nó sẽ giúp những đối tượng nầy dễ dàng ổn định tâm trí, phát sinh trí tuệ sáng suốt, chủ động trong mọi hành động, lời nói, ý nghỉ.
-ooOoo-
LỢI ÍCH CỦA PHÁP NIỆM ÂN ÐỨC PHẬT
Tất cả đề mục thiền định đều có một mục đích duy nhất là định tâm an trú trong một đề mục thiền định duy nhất, không thể phóng tâm chuyện nầy chuyện kia. Có những đề mục thiền định có thể dẫn đến cận định (Upararasamadhi) rồi tiến đến an định (Appanasamadhi) để chứng đắc các bậc thiền hữu sắc.
Riêng với đề mục 9 ân đức Phật là một đề mục rất vi tế, sâu sắc, rộng lớn vì vậy tâm của hành giả không thể an trú vào một điểm nào nhất định. Hành giả chỉ có khả năng chứng đạt đến cận định, mà không thể chứng đạt đến an định, nên không thể chứng đắc được bậc thiền hữu sắc nào. Cận định tâm của đề mục niệm Ân đức Phật vẫn còn là dục giới đại thiện tâm thuộc về dục giới thiện nghiệp.
Cận định tâm là một đại thiện tâm thuộc dục giới. Cùng với đại thiện tâm cận định nầy là sự tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, lòng tôn kính sâu sắc nơi Ðức Phật, phát sinh hỉ lạc rất vi tế ở ý thức tâm. Hành giả có thể ngồi niệm Ân đức Phật hàng giờ vẫm cản thấy an lạc lạ thường.
Do năng lực của dục giới thiện nghiệp nầy, cuộc sống hằng ngày của hành giả thường an lạc, tránh được điều rủi ro một cách phi thường, phần đông mọi người đều kính mến, chư thiên kính yêu và hộ trì, vắng lặng phiền não, có trí tuệ sáng suốt, phước thiện tăng trưởng. Hành giả sẽ luôn có cảm tưởng như gần gũi với Ðức Phật, nên tâm không sợ hãi, chịu đựng được những đau đớn trong thân khi bị bệnh hoạn, luôn luôn có sự hổ thẹn và ghê sợ mọi tội lỗi, giữ gìn giới hạnh trong sạch dễ dàng, dễ dàng lắng nghe chánh pháp, thực hành chánh pháp, dễ dàng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh quả và Niết bàn. Thân của hành giả luôn niệm ân đức của Ðức Phật trở thành một ngôi chùa với hình ảnh thiêng liêng của Thế Tôn. Tâm của vị ấy luông hướng về sự giác ngộ tối thượng. Do đó niệm ân đức Phật là cơ sở vững chắc cho chúng ta trên đường tu tập và thành tựu Thánh Ðạo và Thánh quả.
Dục giới thiện nghiệp tạo được do tiến hành thiền định này vững chắc hơn thiện nghiệp dục giới tạo ra do Bố thí và Trì giới. Cho nên, khi gần chết, tâm của hành giả không mê muội. Trái lại, tâm rất bình tĩnh và sáng suốt. Vì vậy, sau khi chết, nếu dục giới thiện nghiệp này cho quả tái sanh làm người, thì sẽ là người có trí tuệ. Ngay như nếu hành giả không đạt Thánh Ðạo và Thánh Quả trong kiếp sống nầy, vị ấy cũng được tái sinh nơi cõi thiện giới. Nếu tái sinh làm người sẽ là người có trí tuêï, có sắc thân sinh đẹp đáng ngưỡng mộ, các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng yêu quý. Thân có hương thơm. Miệng có mùi hương tỏa ra. Có trí tuệ nhiều. Có trí tuệ sâu sắc. Có trí tuệ sắc bén. Có trí tuệ nhanh nhẹn. Có trí tuệ phong phú. Có trí tuệ phi thường. Nói lời hay có lợi ích. Có địa vị cao quý. Nếu tái sinh làm chư thiên, sẽ là một thiên nam hoặc thiên nữ có nhiều oai lực, hưởng được sự an lạc đặc biệt hơn các chư thiên khác.
Hơn thế nữa, tái sanh kiếp nào, sẽ có duyên lành gặp Ðức Phật và giáo pháp của Ngài. Khi gặp Ðức Phật hoặc giáo pháp của Ngài, vị ấy sẽ dễ dàng phát sinh đức tin nơi Tam bảo, lắng nghe chính pháp, dễ dàng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh đế, chứng đắc 4 Thánh đạo - 4 Thánh quả và Niết bàn, giải thoát mọi cảnh khổ sanh tử luân hồi trong 3 giới 4 loài.
Về pháp niệm Ân đức Phật, Ðức Phật dạy:
"Này chư Tỳ kheo, pháp hành tùy niệm Ân Ðức Phật mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sanh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp - sắc pháp náy, để tận diệt tâm tham ái, sân hận, si mê; để làm vắng lặng mọi phiền não; để làm phát sanh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã; để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh quả và Niết bàn" [v]
III. NIỆM ÂN ÐỨC PHẬT LÀ CÁCH CÚNG DƯỜNG CAO THƯỢNG:
Niệm ân đức Phật là một trong những cách cúng dường tốt đẹp nhất đến Ðấng Từ Phụ. Phật dạy cúng dường có 2 cách. Cúng dường bằng phẩm vật (amisapuja) như hương, hoa... và cúng dường bằng hành pháp (patipattipuja): hành giới, hành định, và hành tuệ. Trong 2 cách cúng dường nầy, Ðức Phật tán dương cách cúng dường bằng hành pháp hay thiền định (trong đó có pháp niệm ân đức Phật) là cao thượng nhất. Khi gần tịch diệt Niết bàn, Phật dạy chỉ có hành pháp mới thật là cách cúng dường cao thượng nhất.[vi]
Khi đức Phật thông báo cho các vị tỳ kheo rõ thời gian tịch diệt Niết bàn của Ngài không còn lâu. Chư Tỳ kheo thường đến hầu hạ Ngài với lòng tôn kính thương yêu. Riêng Tỳ kheo Attadattha nghĩ: "Ðức Thế Tôn còn thời gian không lâu sẽ tịch diệt Niết bàn, còn ta vẫn chưa diệt được tham ái, ta nên cố gắng tiến hành thiền tuệ, chứng đắc đến A la hán Thánh đạo-A la hán Thánh quả trở thành bậc thánh A la hán khi Ðức Thế Tôn còn hiện tiền." Vì vậy ngài ở nơi thanh vắng một mình để tiến hành thiền tuệ. Một số tỳ kheo khác chê trách ngài không biết kính yêu đức Phật.
Thế Tôn bèn hỏi ngài: "Này con, con nghĩ thế nào mà hành động như vậy?"
Ðại đức Attadattha thưa: "Kính bạch Thế Tôn, con được nghe biết Ðức Thế Tôn không còn bao lâu nữa sẽ tịch diệt Niết bàn, con cố gắng tiến hành thiền tuệ để chứng đắc A la hán Thánh đạo - A la hán Thánh quả trong khi Ðức Thế Tôn còn hiện tiền."
Nghe vậy, Thế Tôn nói: "Sadhu! Sadhu! Này chư Tỳ kheo, Tỳ kheo nào có lòng kính yêu Như Lai, Tỳ kheo ấy nên noi gương như Tỳ kheo Attadattha. Thật vậy, những người cúng dường bằng hương hoa v.v.. chưa phải là cúng dường Như Lai. Những người tiến hành theo pháp hành thiền tuệ chứng đắc siêu tam giới pháp, mới thật sự là cúng dường Như Lai. Vì vậy, những người khác nên thực hành giống như tỳ kheo Attadattha."
Trước khi nhập diệt, Thế Tôn dạy Ðại đức Ananda cùng ý nghĩa trên:
"Này Ananda, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ nào theo hành pháp hành thiện tuệ, chứng đắc siêu tam giới pháp, cung kính thực hành nghiêm chỉnh theo Giới-Ðịnh-Tuệ, thực hành theo chánh pháp, người ấy mới thật tôn kính Như Lai, tôn trọng, kính yêu, cúng dường, lễ bái Như Lai một cách cao thượng."
"Vì vậy, này Ananda, trong Phật giáo này, các con nên học tập rằng: "Chúng ta nên theo hành pháp hành thiền tuệ, chứng đắc siêu tam giới pháp, cung kính thực hành nghiêm chỉnh theo giới-định-tuệ", thực hành theo chánh pháp"[vii]
Vì vậy, để tỏ lòng tôn kính Ðức Phật, Ðấng Từ Phụ, chúng ta nên cố gắng tinh tấn thực hành theo lời giáo huấn của Ngài, cố gắng tu tập thiền chỉ và thiền minh sát, bắt đầu với việc niệm 9 ân đức Phật, để xứng đáng cúng dường đến Ngài, đồng thời mang lại cho chúng ta sự lợi ích, sự tấn hóa, sự an lạc cao quý; vừa đóng góp vào việc duy trì bảo tồn Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian, hầu đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho tất cả chúng sanh, nhất là chư thiên và nhân loại.
Nguyện cầu cho chánh pháp được trường tồn trên thế gian
Xong tại Montreal, ngày 19 tháng 6, 2002
---***---
[i] Hai cách xếp loại này được giảng trong Thanh tịnh đạo, Mahatika, Tập 1. Xin xem Min Gun, The Great Chronicles of Buddhas. Tập 6. trang 414.
[ii] Ngài Dhammanasi giới thiệu 2 quyển sách tốt về ân đức Phật là The Buddha, My Refugeecủa Ajhan Khantipalo, một Tỳ kheo gốc người Anh tu ở Thái Lan và The Nine Qualities of the Buddha của Ngài Ananda Meitreya, một cao tăng người Tích Lan.
[iii] Ðại đức Hộ Pháp. Sách đã dẫn, trang 114 - 116.
[iv] Như trên, trang 9 - 12
[v] Kinh Anguttara Nikaya, phần Ekadhammavagga. Trích dẫn trong Tìm hiểu pháp môn niệm Phật. Ðại đức Hộ Pháp. Trang 3.
[vi] Bộ Dhammapadatthakatha, chuyện Attadatthatheravatthu. Ðại đức Hộ Pháp. trang 121.
[vii] Bộ Digha Nikaya, phẩm Mahavagga. Kinh Mahaparinibbana sutta. Xem Tỳ kheo Hộ Pháp trang 122.
-ooOoo-